Những nguyên nhân gây ra rối loạn nhân cách

Phát triển rối loạn nhân cách là kết quả của tác động của các yếu tố không mong muốn về mặt sinh học, di truyền và tâm xã hội (thường là bởi sự bỏ rơi và từ chối từ phía người chăm sóc). Cho đến gần đây, sự chú ý của các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các khía cạnh gia đình (ví dụ, phát triển không tốt của các giai đoạn khác nhau, thiếu sự đáp ứng nhu cầu an toàn, mức độ căng thẳng và xung đột gia đình tăng cao). Hiện nay, có sự quan tâm ngày càng lớn đối với các yếu tố di truyền. Các triệu chứng đầu tiên của rối loạn nhân cách thường được quan sát ở tuổi thiếu niên muộn hoặc tuổi trẻ, mặc dù thường được xác định ở giai đoạn người lớn. Điều này là do giả định rằng trong quá trình hình thành tâm hồn của người trẻ, khả năng xử lý vấn đề xung đột một cách xây dựng có thể phát triển và những không phù hợp trong giai đoạn tuổi teen có thể không phát triển thành rối loạn nhân cách. Làm cách nào để đưa ra chẩn đoán? Thường là dựa vào cuộc phỏng vấn tâm thần chi tiết thu thập từ bệnh nhân và trong mức có thể cũng từ người thân. Kiểm tra tâm lý cũng có thể là bổ sung. Cũng cần loại trừ khả năng có sự hiện diện của các rối loạn tâm thần khác hoặc các biến đổi bệnh lý như tổn thương não, có thể là nguyên nhân của hành vi không mong muốn. Khi nào nên nghi ngờ rối loạn nhân cách ở người thân? Có lẽ bạn cần xem xét xem các tiêu chí sau có xuất hiện không: thái độ và hành vi không hợp nhau rõ ràng, nó thường bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, bao gồm cả cảm xúc hoặc tính dễ cáu – những người có rối loạn nhân cách thường có xu hướng hành xử quá hung dữ trong cuộc trò chuyện thông thường, có thể hét lên, tự xưng, thể hiện tính quyết đoán; mẫu hành vi không đúng không dừ lâu và không giới hạn bởi các biến đổi tâm thần; mẫu hành vi bao quát và rõ ràng không phù hợp với các tình huống cá nhân và xã hội đa dạng – người mắc chứng rối loạn nhân cách không tuân thủ nguyên tắc chung thường chấp nhận, cũng không chú ý đến cảm xúc của người khác trong các tình huống đòi hỏi, ví dụ như nói những lời không hay khi ai đó đang có khó khăn trong cuộc sống, thay vì hỗ trợ; những khó khăn được ghi nhận luôn xuất hiện trong giai đoạn trẻ hoặc tuổi teen và kéo dài đến thời kỳ dậy thì; rối loạn dẫn đến tâm trạng tồi tệ, có thể tồn tại khi xã với tuổi trưởng thành; rối loạn có thể kèm theo khó khăn đáng kể trong quá trình thực thi chuyên môn và xã hội (những người mắc chứng rối loạn nhân cách có thể khó hợp tác với người khác chẳng hạn, hoặc không chú ý nghe lời của người khác). Có những loại rối loạn nhân cách nào? Phân loại 3 nhóm rối loạn nhân cách, được phân chia dưới đây dựa trên các đặc điểm chung: Nhóm A – kỳ lạ, kỳ dị và thiếu quan hệ Nhân cách sơ cưng – người này nghi ngờ người khác đang lợi dụng, hại họ, mặ dù không có bằng chứng nào. Liên tục lo lắng về lòng trung thành của bạn bè hoặc đồng nghiệp. Hiểu hỏi hành vi khác nhau như những sự phỉ báng ẩn dụ, giữ mối ác cảm, khó tha thứ. Dễ cáu và tấn công trở lại khi gặp phản ứng phản lời về mình, mặc dù người khác không nhìn nhận vấn đề như thế. Có những nghi ngờ tái diễn về sự không chung thủy của đối tác mà không có chứng cứ đầy đủ. Hiếm khi tìm kiếm sự trợ giúp do đặc tính không tin tưởng của họ. Bệnh nhân mức độ lo lắng rối loạn nhân cách thì bị nghi ngờ quá mức và tin rằng người khác muốn hại họ. Do đó họ kín đáo và không muốn chia sẻ với người khác. Họ có thể nhận ra sự phỉ báng trong hành vi và từ ngữ mặc dù không đựng ý đó. Đặc tính mức độ này của rối loạn nhân cách sơ cưng là không sẵn lòng tha thứ. Cuộc sống cùng người có nhân cách sơ cưng không dễ dàng, vì thường những nghi ngờ không cơ sở dành về bất chân về việc không chung thu. Nhân cách loạn cảm - những người có loại nhân cách này là cá nhân độc lập, có các đặc điểm và hành vi mà không tương tác xã hội. Họ thích làm việc và dành thời gian một mình, thỉnh thoảng họ hoàn toàn theo đuổi một sở thích hoặc công việc được coi là sứ mệnh. Họ không quan tâm nhiều về cuộc sống tình dục và các mối quan hệ xã hội. Họ không có bạn bè, người quen. Họ chỉ duy trì liên hệ với người thân thứ nhất. Họ có thể trở nên khó chịu và gay gắt nếu ai đó - theo quan điểm của họ - làm xao lãng sự cô đơn và yên bình của họ. Họ có niềm tin kỳ quặc, tư duy ma thuật không đồng nhất với ngạch văn hóa (tinh thần thông linh, thứ sáu, thấy ánh sáng cận thị, cảm biến giác quan không bình thường và tư duy và ngôn ngữ không đồng nhất (hóp dẫn, kiểu khuôn mẫu, kỳ lạ), sự nghi ngờ cũng như các đặc tính của việc dùng không phải ứng hoặc giữ chặtm giác xúc. Lo lắng béo bởi quá mức cũng thường đến kèm theo, mà sự không thu hẹp quan hệ thương mại chói óa. Người này thường áp dụng đối thủy cho lãng mạng quá mức, không lan quan với việc chấm dứt gần gũi thânh băn lãng đời sóng. Emotion. Họ là tìm thấy rõ ràng niềm giao dòan mới quan hệ cá nhân và xã hội (những người có nhân cách loạn cá nhân không tuân thủ nhưng nguyên tắc phổ thông, cũng không chú ý đến cường nghà a để kỷ bất kỳ đạng xác định). Nhóm B – mối quan hệ quá xáo trên, bày tỏ cảm xúc mạnh mẽ, thiếu sức đề khác chịu đựng Nhân cách chống xã hội - người có rối loạn nhân cách này không thể phù hợp với nguyên tắc chung. Điều quan trọng họ không cảm thấy tội lỗi trong việc đó hoặc rất ít. Thường xả thường dùng kỹ dụng, lừa dối người khác để đạt được các mục tiêu của họ. Hồi tưởng - không có thể kiểm soát thông~ điệp, dễ cáu giận, có thể gặp xung đột. Họ tuyệt đối không quan trọng về rủicóng hoặc sức khỏe của họ. Không tự giác, không thể duy trì công việc ổn định, không trả nợ của mình. Thêm vào đó, thường lạm dụng các chất kích thích tâm trạng (rượu hoặc ma túy). Một đặc điểm quan trọng khác là mất điều tiết và thiếu suy nghĩ về hành vi không chung theo những nguyên tắc thống nhất của xã hội. Nhân cách diễn cảm - người có rối loạn nhân cách này liên tục muốn ở tâm điểm chú ý, kích động cảm xúc hoặc tình dục để thu hút chú ý. Nói hành vi và cư xử theo cách độc đáo. Phát biểu ý kiến kiến định, nhưng không thể chứng minh chúng. Dễ bị chi phối bởi người khác. Cảm xúc của họ thay đổi nhanh chóng. Rất chú trọng tới bản thân vẻ bề ngoai. Nghĩ rằng quan hệ của họ là gần gũi hơn so với hiẹn tại. Sự mong muốn cần phải bỏi và mê hoặc liên quan vào tâm sadb gòi biểu đa hàng những chuyện trừu tượng hoặc tốt kiểu, cái gì đó đềydao biểu xác cảm hoặc tinh tế. Chú ý thường quan tới thái hãt thê cử sư dụng khi ứng xử và đánh gòi quá đà trong việc thốt lấy vào cá nhân lóc sau đó nhận lấy gòi fan. Thông thường chú vài lợi dụng qua mức cùng với sự diễn diễn lốc xố ở trong cách ứng xử vòa thể thức suong năng cho cự vị lợi khu vu. Hạn chế chúng từ gì rằng cụ một thi dee quan cầu voi những hốc tồ thường ho thường đưa, toi khi hạt ở trong khi. Thím khít từ điều thiên rõ ràng năng cống, kết cấ đã của ngăm mình, ai có thể kiếm...
Phát triển rối loạn nhân cách là kết quả của tác động của các yếu tố không mong muốn về mặt sinh học, di truyền và tâm xã hội (thường là bởi sự bỏ rơi và từ chối từ phía người chăm sóc). Cho đến gần đây, sự chú ý của các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các khía cạnh gia đình (ví dụ, phát triển không tốt của các giai đoạn khác nhau, thiếu sự đáp ứng nhu cầu an toàn, mức độ căng thẳng và xung đột gia đình tăng cao). Hiện nay, có sự quan tâm ngày càng lớn đối với các yếu tố di truyền. Các triệu chứng đầu tiên của rối loạn nhân cách thường được quan sát ở tuổi thiếu niên muộn hoặc tuổi trẻ, mặc dù thường được xác định ở giai đoạn người lớn. Điều này là do giả định rằng trong quá trình hình thành tâm hồn của người trẻ, khả năng xử lý vấn đề xung đột một cách xây dựng có thể phát triển và những không phù hợp trong giai đoạn tuổi teen có thể không phát triển thành rối loạn nhân cách. Làm cách nào để đưa ra chẩn đoán? Thường là dựa vào cuộc phỏng vấn tâm thần chi tiết thu thập từ bệnh nhân và trong mức có thể cũng từ người thân. Kiểm tra tâm lý cũng có thể là bổ sung. Cũng cần loại trừ khả năng có sự hiện diện của các rối loạn tâm thần khác hoặc các biến đổi bệnh lý như tổn thương não, có thể là nguyên nhân của hành vi không mong muốn. Khi nào nên nghi ngờ rối loạn nhân cách ở người thân? Có lẽ bạn cần xem xét xem các tiêu chí sau có xuất hiện không: thái độ và hành vi không hợp nhau rõ ràng, nó thường bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, bao gồm cả cảm xúc hoặc tính dễ cáu – những người có rối loạn nhân cách thường có xu hướng hành xử quá hung dữ trong cuộc trò chuyện thông thường, có thể hét lên, tự xưng, thể hiện tính quyết đoán; mẫu hành vi không đúng không dừ lâu và không giới hạn bởi các biến đổi tâm thần; mẫu hành vi bao quát và rõ ràng không phù hợp với các tình huống cá nhân và xã hội đa dạng – người mắc chứng rối loạn nhân cách không tuân thủ nguyên tắc chung thường chấp nhận, cũng không chú ý đến cảm xúc của người khác trong các tình huống đòi hỏi, ví dụ như nói những lời không hay khi ai đó đang có khó khăn trong cuộc sống, thay vì hỗ trợ; những khó khăn được ghi nhận luôn xuất hiện trong giai đoạn trẻ hoặc tuổi teen và kéo dài đến thời kỳ dậy thì; rối loạn dẫn đến tâm trạng tồi tệ, có thể tồn tại khi xã với tuổi trưởng thành; rối loạn có thể kèm theo khó khăn đáng kể trong quá trình thực thi chuyên môn và xã hội (những người mắc chứng rối loạn nhân cách có thể khó hợp tác với người khác chẳng hạn, hoặc không chú ý nghe lời của người khác). Có những loại rối loạn nhân cách nào? Phân loại 3 nhóm rối loạn nhân cách, được phân chia dưới đây dựa trên các đặc điểm chung: Nhóm A – kỳ lạ, kỳ dị và thiếu quan hệ Nhân cách sơ cưng – người này nghi ngờ người khác đang lợi dụng, hại họ, mặ dù không có bằng chứng nào. Liên tục lo lắng về lòng trung thành của bạn bè hoặc đồng nghiệp. Hiểu hỏi hành vi khác nhau như những sự phỉ báng ẩn dụ, giữ mối ác cảm, khó tha thứ. Dễ cáu và tấn công trở lại khi gặp phản ứng phản lời về mình, mặc dù người khác không nhìn nhận vấn đề như thế. Có những nghi ngờ tái diễn về sự không chung thủy của đối tác mà không có chứng cứ đầy đủ. Hiếm khi tìm kiếm sự trợ giúp do đặc tính không tin tưởng của họ. Bệnh nhân mức độ lo lắng rối loạn nhân cách thì bị nghi ngờ quá mức và tin rằng người khác muốn hại họ. Do đó họ kín đáo và không muốn chia sẻ với người khác. Họ có thể nhận ra sự phỉ báng trong hành vi và từ ngữ mặc dù không đựng ý đó. Đặc tính mức độ này của rối loạn nhân cách sơ cưng là không sẵn lòng tha thứ. Cuộc sống cùng người có nhân cách sơ cưng không dễ dàng, vì thường những nghi ngờ không cơ sở dành về bất chân về việc không chung thu. Nhân cách loạn cảm - những người có loại nhân cách này là cá nhân độc lập, có các đặc điểm và hành vi mà không tương tác xã hội. Họ thích làm việc và dành thời gian một mình, thỉnh thoảng họ hoàn toàn theo đuổi một sở thích hoặc công việc được coi là sứ mệnh. Họ không quan tâm nhiều về cuộc sống tình dục và các mối quan hệ xã hội. Họ không có bạn bè, người quen. Họ chỉ duy trì liên hệ với người thân thứ nhất. Họ có thể trở nên khó chịu và gay gắt nếu ai đó - theo quan điểm của họ - làm xao lãng sự cô đơn và yên bình của họ. Họ có niềm tin kỳ quặc, tư duy ma thuật không đồng nhất với ngạch văn hóa (tinh thần thông linh, thứ sáu, thấy ánh sáng cận thị, cảm biến giác quan không bình thường và tư duy và ngôn ngữ không đồng nhất (hóp dẫn, kiểu khuôn mẫu, kỳ lạ), sự nghi ngờ cũng như các đặc tính của việc dùng không phải ứng hoặc giữ chặtm giác xúc. Lo lắng béo bởi quá mức cũng thường đến kèm theo, mà sự không thu hẹp quan hệ thương mại chói óa. Người này thường áp dụng đối thủy cho lãng mạng quá mức, không lan quan với việc chấm dứt gần gũi thânh băn lãng đời sóng. Emotion. Họ là tìm thấy rõ ràng niềm giao dòan mới quan hệ cá nhân và xã hội (những người có nhân cách loạn cá nhân không tuân thủ nhưng nguyên tắc phổ thông, cũng không chú ý đến cường nghà a để kỷ bất kỳ đạng xác định). Nhóm B – mối quan hệ quá xáo trên, bày tỏ cảm xúc mạnh mẽ, thiếu sức đề khác chịu đựng Nhân cách chống xã hội - người có rối loạn nhân cách này không thể phù hợp với nguyên tắc chung. Điều quan trọng họ không cảm thấy tội lỗi trong việc đó hoặc rất ít. Thường xả thường dùng kỹ dụng, lừa dối người khác để đạt được các mục tiêu của họ. Hồi tưởng - không có thể kiểm soát thông~ điệp, dễ cáu giận, có thể gặp xung đột. Họ tuyệt đối không quan trọng về rủicóng hoặc sức khỏe của họ. Không tự giác, không thể duy trì công việc ổn định, không trả nợ của mình. Thêm vào đó, thường lạm dụng các chất kích thích tâm trạng (rượu hoặc ma túy). Một đặc điểm quan trọng khác là mất điều tiết và thiếu suy nghĩ về hành vi không chung theo những nguyên tắc thống nhất của xã hội. Nhân cách diễn cảm - người có rối loạn nhân cách này liên tục muốn ở tâm điểm chú ý, kích động cảm xúc hoặc tình dục để thu hút chú ý. Nói hành vi và cư xử theo cách độc đáo. Phát biểu ý kiến kiến định, nhưng không thể chứng minh chúng. Dễ bị chi phối bởi người khác. Cảm xúc của họ thay đổi nhanh chóng. Rất chú trọng tới bản thân vẻ bề ngoai. Nghĩ rằng quan hệ của họ là gần gũi hơn so với hiẹn tại. Sự mong muốn cần phải bỏi và mê hoặc liên quan vào tâm sadb gòi biểu đa hàng những chuyện trừu tượng hoặc tốt kiểu, cái gì đó đềydao biểu xác cảm hoặc tinh tế. Chú ý thường quan tới thái hãt thê cử sư dụng khi ứng xử và đánh gòi quá đà trong việc thốt lấy vào cá nhân lóc sau đó nhận lấy gòi fan. Thông thường chú vài lợi dụng qua mức cùng với sự diễn diễn lốc xố ở trong cách ứng xử vòa thể thức suong năng cho cự vị lợi khu vu. Hạn chế chúng từ gì rằng cụ một thi dee quan cầu voi những hốc tồ thường ho thường đưa, toi khi hạt ở trong khi. Thím khít từ điều thiên rõ ràng năng cống, kết cấ đã của ngăm mình, ai có thể kiếm...
Show original content

3 users upvote it!

0 answers